Hà Đạo Hàm |
Chợ Tết của cộng đồng người Việt ở Montréal thường được tổ chức trước ngày mồng một Tết, có khi thì vài ngày,
nhưng cũng có lúc một vài tuần, vì còn tuỳ theo sự thuê mướn địa điểm. Tôi sống
ở thành phố Québec nhưng năm nào cũng về tham dự chợ Tết, bởi đây là cơ hội gặp
đồng hương, và nhất là bạn bè mà cả năm
mỗi người mỗi việc, ít khi thấy mặt nhau.
Tôi và Hiền chia nhau ăn hết hai
đĩa bánh, Hiền tự động đứng lên mua thêm các món ăn khác. Phần vì chưa ăn sáng,
phần vì lâu lâu mới có dịp ăn lại nên tôi ăn ngon lành. Ăn xong, trong khi cả hai cùng ngồi uống nước trà, Hiền mới nhìn
quanh quan sát một lúc rồi nói:
Trác cười như hiểu ý Hiền:
Tôi trách Hiền:
Bà con người Việt đến tham dự đông đảo hơn, câu chuyện của chúng tôi bị ngắt quãng bởi phải chào hỏi và trả lời vài người quen. Sắp đến giờ khai mạc, quan khách ngồi kín các hàng ghế trước sân khấu và đầy người đứng chung quanh. Sau khi ban tổ chức thực hiện các nghi thức khai mạc chợ Tết là văn nghệ giải trí, các ca sĩ lên hát những bài ca mùa Xuân quen thuộc. Một người bạn đến kéo Hiền nhập vào nhóm phụ nữ. Tôi thấy vậy vỗ vai Trác nói:
Trác theo tôi ra quầy bán cà phê mua mỗi người một ly rồi cả hai cùng bước ra góc phòng, tôi hỏi Trác:
Một bạn khác chen vào:
Chợt thấy Khoát, một người bạn cũ đi qua, tôi tách mình ra khỏi nhóm lên tiếng gọi:
Vừa nói chuyện với Khoát, tôi vừa chọn vị trí để có thể trông rõ người đàn ông mà tôi thắc mắc. Không lẽ đó là Thành! Tôi tự hỏi như vậy và nhìn thật kỹ hơn, chẳng còn phải nghi ngờ gì nữa. Khuôn mặt Thành khắc khổ hơn xưa, nhiều nếp nhăn nhưng có thể nhận ra ngay nếu như tóc không bạc và đừng đeo kính lão. Thành là một bạn học của tôi từ lúc còn học trung học, và cuộc đời của tôi có ít nhiều ảnh hưởng bởi anh ta.
Hiền không nói gì thêm, im lặng một lúc rồi lên tiếng:
Hiền nói phải, chẳng bao giờ tôi còn mong tìm lại được cuộc sống an phận ngày xưa. Có những ràng buộc cuộc đời tôi với xứ sở mới này và những khó khăn ngăn chặn đường về quê cũ. Tôi ngậm ngùi nghĩ đến thân phận của những người Việt tha hương ở thế hệ như tôi, những ưu tư của bao người phải bỏ nước ra đi vì lẽ này lẽ khác, mà mỗi khi Xuân về lòng nghe ray rức bởi tiếng réo gọi của cội nguồn. Tôi lại nghĩ đến Thành, trong lòng thương cảm và nhận ra mình còn có may mắn hơn Thành nhiều lắm. Tôi không trách việc Thành theo phía bên kia, ít ra Thành cũng là người sống có lý tưởng. Giờ đây, dù lý tưởng đó có phản bội hay không còn thích hợp với mình nữa, thì vẫn còn chút an ủi rằng mình đã sống một thời hăng say, sôi nổi. Chỉ tiếc thế hệ chúng tôi sinh ra vào lúc vận nước đang hồi đen tối, đầy những biến động khiến nhiệt huyết của tuổi thanh niên phải hao phí, lắm khi lại bị chà đạp phủ phàng. Nếu được sống ở một đất nước thanh bình, cái lý tưởng của Thành được đặt đúng nơi đúng chỗ sẽ cho một kết quả xứng đáng hơn, chứ đâu phải như bây giờ mới bắt đầu làm lại cuộc đời, khi tóc đã bạc màu, thân đã mệt mỏi mà tâm cũng chẳng an.
Chúng tôi đến chợ Tết khá sớm, vào
bên trong chỉ thấy khoảng năm, sáu mươi
người, nhưng phần lớn có lẽ là người trong gia đình của chủ nhân các bàn bán thức
ăn, họ cần đến sớm để chuẩn bị trước khi khách đến. Khu ẩm thực được sắp xếp ở
góc hội trường gồm những bàn rộng đặt nối tiếp nhau, có đủ các món ăn đặc biệt của
người Việt. Hiền đề nghị:
- Anh à!
Lợi dụng lúc ít người như thế này nên đi một vòng, xem có món
gì thích thì ăn trước cho chắc bụng, sau đó ngồi chơi, gặp lại bạn bè tha hồ
nói chuyện, không phải lo cho cái bao tử nữa.
Không đợi tôi trả lời, Hiền kéo
tôi lại các dãy bàn bán thức ăn. Rồi cũng không cần hỏi ý, đến hàng bánh bèo lấy
ngay cho tôi một đĩa và qua hàng bên
cạnh chọn cho mình một đĩa bánh cuốn. Mỗi người một đĩa mang ra bàn ăn. Tôi hỏi Hiền:
- Em làm gì như bị bỏ đói lâu
ngày vậy, ăn mà không chọn lựa gì cả?
Hiền cười vui vẻ nói:
- Cũng có
nhiều món ăn để chọn, chỉ liếc qua là biết hết rồi. Gì chứ ăn em lẹ mắt lắm!
Nhưng mình chỉ ăn những món ít khi được ăn như bánh bèo bánh cuốn, gỏi đu đủ...,
còn những món khác có thể làm được ở nhà. Em lấy mỗi người một đĩa
chia nhau ăn, nếu ngon thì mua thêm, còn
không ngon mình chọn món mới.
Chợ Tết Việt Nam tại Montreal |
- Người ta vào cũng nhiều nhưng chưa đông lắm. Em nghĩ
không biết trong tương lai, các thế hệ sau mình có còn biết tổ chức được như
vầy không?
- Em khéo lo chuyện bò trắng răng, mỗi thế hệ có một cách thích ứng với đời sống, nếu chúng nó
thấy cần thiết thì làm, không thì thôi!
- Anh nói chuyện huề vốn, ai chẳng biết như vậy!
- Thật ra anh tin rằng các thế hệ
sau sẽ không quên truyền thống đâu vì luôn được nhắc nhở. Ngày nay thế giới rất
gần nhau, đi lại cũng dễ mà thông tin thì tràn ngập. Thế hệ trẻ lại thường
xuyên tiếp xúc với internet, mở máy vi
tính là biết ngày hôm nay là Tết ta hay Tết tây ngay. Chỉ khác với chúng ta là
lớp trẻ lớn lên bên này không có cái cảm xúc của phút giao thừa, của ngày đầu
năm như chúng ta thôi.
- Anh nói đúng, mình ở đây đã lâu nhưng mỗi khi Tết đến,
thắp nhang cúng giao thừa em đều cảm thấy xúc động trong giờ phút linh thiêng...
Chợt có người lên tiếng:
- Chào
anh chị, anh chị đến sớm quá vậy?
Nhận ra Trác, một người bạn
của em tôi, tôi đứng lên bắt tay:
- Ah! Chào chú Trác, lâu ngày mới gặp, khoẻ không? Còn
cô đâu mà thấy chú một mình?
- Dạ, nhà
em đang nói chuyện với bạn ở đàng kia. Còn anh chị như thế nào?
- Anh chị
cũng thường thôi, chú ngồi xuống đây đi.
Tôi vừa nói vừa kéo chiếc ghế bên
cạnh, rồi tiếp:
- Anh
nghe Sinh nó bảo lúc này chú thường xuyên về Việt Nam lắm, phải không?
- Dạ đúng,
em có mở một cơ sở sản xuất ở bên đó.
Hiền lên tiếng:
- Chú về
làm ăn có được không? Thế cô có đi theo chú không?
Trác cười như hiểu ý Hiền:
- Công
việc thì cũng tạm ổn định, còn nhà em thì cùng về với em chứ cô ấy đâu dám cho
em đi một mình!
- Cô ấy
làm như vậy là phải rồi, chồng đâu vợ đó mới được. Các ông bây giờ mà thả về
Việt Nam một mình chỉ có hư!
Tôi trách Hiền:
- Em cứ
vơ đũa cả nắm, chẳng lẽ ông nào về Việt Nam một mình cũng bậy bạ cả sao?
Hiền cười trả lời:
- Em
chẳng tin ông nào cả!
Bà con người Việt đến tham dự đông đảo hơn, câu chuyện của chúng tôi bị ngắt quãng bởi phải chào hỏi và trả lời vài người quen. Sắp đến giờ khai mạc, quan khách ngồi kín các hàng ghế trước sân khấu và đầy người đứng chung quanh. Sau khi ban tổ chức thực hiện các nghi thức khai mạc chợ Tết là văn nghệ giải trí, các ca sĩ lên hát những bài ca mùa Xuân quen thuộc. Một người bạn đến kéo Hiền nhập vào nhóm phụ nữ. Tôi thấy vậy vỗ vai Trác nói:
- Hai anh
em mình ra đây kiếm cà phê uống đi.
Trác theo tôi ra quầy bán cà phê mua mỗi người một ly rồi cả hai cùng bước ra góc phòng, tôi hỏi Trác:
- Em về
bên đó làm ăn ra sao, có khó khăn lắm không?
- Em chỉ
đưa về bên đó sản xuất một số bộ phận cho hãng chính ở bên này, khó khăn thì
đâu chẳng có, nhưng ở Việt Nam thì mình biết điều với chính quyền một chút cũng
xong thôi.
Đứng nói chuyện một lúc có vài
người khác nhập cuộc; đó là bạn của Trác hoặc của tôi. Chúng tôi đứng thành
vòng tròn, nói cười rộn rã. Tôi chợt nghe một giọng đàn ông khá lớn từ một nhóm
khác ở sau lưng tôi, cách một khoảng không xa. Sự chú ý của tôi không phải cách
phát âm giọng miền trung pha thổ ngữ miền nam mà ở lời
nói. Ông ta đang lên án những sai trái của
nhà cầm quyền Việt Nam hiện tại, nhưng
nội dung thì không mang được điều
gì mới lạ cho lắm. Như để biện minh cho lời nói của mình, ông lên giọng: “Bây
giờ ở bên đó thì thế này..., hiện nay
thì thế nọ...”
Nghe những lời như vậy tôi chắc rằng ông ta mới từ Việt Nam sang hoặc mới ở Việt Nam về. Tôi thử liếc xem người đó là ai, nhưng ông ta đứng xoay lưng về phía tôi nên không thể thấy mặt. Nhìn từ phía sau lưng, đó là một người tầm thước, có vẻ hơi gầy, tóc bạc và hói, mặc bộ com lê màu nâu đậm. Không giải toả được thắc mắc của mình, tôi lại tiếp tục chuyện trò với các bạn. Một người bạn nữa của Trác nhập bọn, được giới thiệu là Sơn, anh ta hỏi Trác:
Nghe những lời như vậy tôi chắc rằng ông ta mới từ Việt Nam sang hoặc mới ở Việt Nam về. Tôi thử liếc xem người đó là ai, nhưng ông ta đứng xoay lưng về phía tôi nên không thể thấy mặt. Nhìn từ phía sau lưng, đó là một người tầm thước, có vẻ hơi gầy, tóc bạc và hói, mặc bộ com lê màu nâu đậm. Không giải toả được thắc mắc của mình, tôi lại tiếp tục chuyện trò với các bạn. Một người bạn nữa của Trác nhập bọn, được giới thiệu là Sơn, anh ta hỏi Trác:
- Tôi tưởng ông đang ở Việt Nam và ăn Tết ở bên đó
chứ!
Trác trả lời:
- À! Hai
mươi tám Tết tôi phải có mặt bên đó để ăn tất niên với anh em trong hãng, hai
hôm nữa là tôi đi rồi.
- Ông sướng
thật, đi Việt Nam mà cứ như đi chợ!
Một bạn khác chen vào:
- Sướng
nỗi gì, bà xã kè kè bên cạnh còn làm ăn được gì nữa!
- Chẳng
lẽ đi đâu bả cũng theo à, phải có lúc lơ là chứ!
- Ai chứ ông
Trác là thứ chăm chỉ hạt bột mà...
Chợt thấy Khoát, một người bạn cũ đi qua, tôi tách mình ra khỏi nhóm lên tiếng gọi:
- Anh
Khoát!
Khoát quay lại, bắt tay tôi vui vẻ
hỏi:
- Ồ! Anh Giao, lâu quá không gặp, anh chị vẫn mạnh
khoẻ chứ?
- Cám ơn,
tụi tôi cũng thường, còn anh chị ra sao?
- Tụi tôi
đều về hưu cả rồi, bây giờ ở nhà trông cháu, thỉnh thoảng đi du lịch chỗ nọ chỗ
kia.
- Thế thì
anh chị sướng quá, tụi tôi còn phải làm thêm vài năm nữa mới được nghỉ hưu. Vậy
anh chị đã về Việt Nam lần nào chưa?
Khoát thở dài:
- Không
anh ạ! Tôi nhớ Saigon lắm, nhưng đã có bao nhiêu lần tù tội, mấy lần vượt biên suýt
chết mới đi thoát, bây giờ lại tìm về, tự thấy vô lý quá, trừ khi chế độ đó
không còn.
Vừa nói chuyện với Khoát, tôi vừa chọn vị trí để có thể trông rõ người đàn ông mà tôi thắc mắc. Không lẽ đó là Thành! Tôi tự hỏi như vậy và nhìn thật kỹ hơn, chẳng còn phải nghi ngờ gì nữa. Khuôn mặt Thành khắc khổ hơn xưa, nhiều nếp nhăn nhưng có thể nhận ra ngay nếu như tóc không bạc và đừng đeo kính lão. Thành là một bạn học của tôi từ lúc còn học trung học, và cuộc đời của tôi có ít nhiều ảnh hưởng bởi anh ta.
***
Vào ngày đầu niên học của tôi ở
lớp đệ tứ, trong khi thầy hướng dẫn đang chuẩn bị những công việc cần thiết cho
lớp như bầu lớp trưởng, tổ trưởng... Chợt có một học sinh lạ bước vào, trình
cho thầy một tờ giấy nhỏ. Xem xong thầy nhìn quanh lớp, thấy chỗ ngồi bên tôi
còn trống, quay lại bảo người học sinh mới xuống ngồi cạnh tôi. Giờ ra chơi,
tôi được biết tên người bạn mới tên Thành, vừa từ miền trung chuyển vào Saigon.
Thành có dáng người tầm thước, hơi gầy, khuôn mặt khắc khổ và trông già dặn hơn các
bạn đồng lớp, giọng nói nặng nhưng không khó nghe lắm. Học chung với nhau được một
vài tháng, tôi nhận thấy Thành chỉ tiếp xúc chừng mực với các bạn, như cố giữ
khoảng cách để không kết thân với ai. Trong lớp, tôi đã có vài đứa bạn rất thân
từ mấy năm trước, thường hay đi chơi chung với nhau, nhưng khi tôi rủ Thành nhập
bọn thì Thành luôn từ chối. Lúc đó tôi có ý nghĩ là do mặc cảm hơi quê mùa nên
Thành ngại. Mãi sau này tôi mới biết đã nhận xét sai, tuy nhiên chính vì nhận
xét sai lầm đó mà tôi cảm thấy thương hại và cư xử thật tốt với Thành. Điều này
đã làm Thành và tôi trở nên thân thiết.
Theo như lời Thành kể, vì cha mẹ Thành
ở ngoài quê đều qua đời nên phải vào Saigon sống với người anh, làm công chức
ở Bộ Y Tế. Nhà người anh thì nhỏ, gia
đình lại đông con nên Thành chỉ nhờ được mỗi ngày ba bữa cơm, chứ chỗ yên tĩnh
để học hành lại không có. Vào thời đó còn phải thi trung học đệ nhất cấp
nên khi nghe Thành tâm sự tôi cũng chạnh lòng. Về nhà kể lại cho cha mẹ
tôi nghe, cha tôi bảo nếu tôi thích thì
buổi tối gọi Thành lại nhà học chung cho có bạn. Khi nói ý kiến của cha tôi thì
Thành chấp thuận ngay. Từ đó, vài ba ngày Thành
đến nhà tôi cùng nhau học hành, ăn ngủ...
Bấy giờ tuổi tôi chỉ trên dưới
mười lăm, chưa có ý thức gì về chính trị, nhưng trong những lúc thong thả ngồi nói chuyện với nhau, Thành hay hướng đề
tài qua các vấn đề về tình hình đất nước, về quốc gia và cộng sản. Thành tỏ ra
hiểu biết về các cuộc cách mạng vô sản ở Nga và Tàu, thường ca ngợi những thành
quả do cách mạng mang lại. Với đầu óc non dại thuở ấy, hai chữ cách mạng đối với tôi mang một ý
nghĩa hết sức lãng mạn. Con người cách mạng tiêu biểu của tôi là Dũng
trong truyện “ Đoạn tuyệt “ của Nhất Linh.
Có lúc tôi cũng mơ mộng được làm người
cách mạng như Dũng, có Loan luôn trông ngóng ở cuối trời, mặc dù không biết
công việc cách mạng của Dũng như thế nào! Những lúc thảo luận với Thành, tôi
ngây thơ nghĩ rằng chỉ là sự thảo luận suông của mấy anh thanh niên mới lớn, muốn
hiểu biết thế giới chung quanh chứ không có mục đích gì khác. Nhưng dần dà tôi
lại có cảm tình với những nhà cách mạng
trong thế giới cộng sản, rồi thích những hứa hẹn mà chủ nghĩa cộng sản sẽ
mang lại cho xã hội.
Năm học trôi qua, cả hai chúng tôi
đều thi đậu. Những ngày hè còn lại tôi cùng bạn bè vui chơi hồn nhiên, đi đá
banh, xem phim.... Mỗi lần các bạn kéo nhau đi chơi đâu, tôi cũng rủ Thành,
nhưng Thành thường từ chối, viện lý do bận đi làm trong một khách sạn để có
tiền chi tiêu. Một buổi chiều tôi đi chơi về đến nhà thì thấy Thành đang ngồi
nói chuyện với cha tôi. Gặp nhau, Thành vui vẻ cho biết đến tìm tôi để rủ tôi
đi ăn mừng vừa mua được chiếc xe gắn máy. Tôi tròn mắt hỏi:
- Sao hay
vậy? Tiền đâu mà mua xe?
- Ông anh
mình vừa về ngoài quê bán căn nhà của ông bà già, mang tiền vô chia cho mình một
phần nên mới có tiền mua xe. Mình vừa nói chuyện và xin phép hai bác cho Giao
đi chơi với mình tối nay. Bây giờ mình đi đi!
Tôi hân hoan chào cha
mẹ rồi đi theo
Thành. Thuở đó học sinh mà có xe gắn máy rất hiếm, đa số đều đi bằng xe đạp. Tôi mê xe máy lắm,
nhưng vẫn còn là một ước mơ xa vời. Gia đình tôi thuộc tầng lớp trung lưu nhưng
cha tôi hứa chỉ khi nào lên đại học mới mua cho xe gắn máy, do đó thấy Thành có xe là tôi bị lôi cuốn ngay. Bước
ra khỏi nhà, Thành đến bên chiếc xe hiệu
Sachs hai màu xanh trắng, mở khoá rồi hỏi tôi muốn chạy thử không, vì chưa quen
lái xe gắn máy nên tôi ngại và từ chối. Biết vậy Thành bảo hôm sau sẽ mang xe lại chở tôi
ra sân vận động, cho tôi “zợt “ vài vòng sẽ quen ngay. Buổi tối hôm đó tôi được
đi ăn cơm Tàu ở Chợ lớn, rồi đi một vòng
Saigon. Cả hai đi đến khoảng mười một giờ đêm mới trở về. Có lẽ đây là kỷ niệm
vui nhất mà tôi có được với Thành trong những ngày thơ ấu. Và cũng từ đó tôi thường tìm gặp Thành để rủ nhau đi chơi,
nếu Thành giao xe cho lái thì tốt, còn nếu được ngồi sau xe cũng là hạnh phúc lắm rồi.
Một buổi tối tôi đi chơi với Thành
hơi khuya, về đến nhà thấy cha tôi còn
thức. Một điều hơi bất thường vì như mọi ngày khoảng mười giờ là ông đã đi ngủ.
Thấy tôi về cha tôi gọi lại, tưởng sẽ bị
la vì chuyện đi chơi về trễ, nhưng
ông chỉ hỏi tôi về Thành. Sau khi
nói hết những gì tôi biết về Thành thì cha tôi bảo:
- Con cần
phải để ý hành động của nó, vì ba nhận thấy nó có điều gì đó
khả nghi. Nếu không thân cộng thì có thể nó đang hoạt động cho cộng sản!
Tôi hơi ngạc nhiên vì lời nói của
cha tôi nên hỏi lại:
- Tại sao
ba biết nó theo cộng sản?
- Ba đã
có dịp nói chuyện với nó và đôi khi vô tình ba cũng nghe được những gì nó nói
với con. Dĩ nhiên ba không có bằng chứng nhưng ba có nhận xét riêng của ba.
Vốn có thiện cảm với cộng sản, nên tôi đánh
bạo trả lời:
- Con
thấy cộng sản cũng đâu có xấu gì, nó đem lại công bằng cho xã hội, không ai bóc
lột ai...
Cha tôi ngắt lời:
- Con đã
biết gì về cộng sản mà nói như vậy. Ba
chắc chắn những ý tưởng đó là do thằng Thành
gieo vào đầu óc con. Trên đời này không có cái gì hoàn toàn xấu mà cũng không có cái gì hoàn
toàn tốt, vì vậy cộng sản hay quốc gia cũng có cái mặt xấu mặt tốt của nó.
Nhưng kinh nghiệm cho ba thấy, nếu phải chọn lựa bên này hoặc bên kia thì ba
chọn bên này. Tuy nhiên con còn nhỏ, chưa hiểu được cặn kẽ vấn đề thì không nên
để ý vào chuyện này, lo học hành trước đã.
- Như vậy
ba có ý nói con đừng chơi với thằng Thành nữa?
- Phải, con
nên xa lánh nó thì hơn. Nhưng phải tìm cách dãn ra từ từ, đừng làm nó nghi ngờ.
Cha tôi giải thích thêm những điều
hơn thiệt cho tôi nghe rồi mới đi ngủ. Tôi có thói quen không đối chất với cha
mẹ, vì vậy trong lòng chẳng đồng ý hoàn toàn những gì cha tôi nói nhưng cũng
đành im lặng, vả lại tôi chưa có bằng
chứng nào để biện minh cho Thành không phải là cộng sản. Dù đã hứa phải tìm
cách xa lánh Thành, nhưng cả hai đứa vẫn
thường gặp nhau. Tôi nói dối với Thành là cha tôi la vì từ khi có xe gắn máy,
hai đứa đi chơi quá nên tốt hơn là Thành đừng đến nhà tôi nhiều như trước. Thật tình tôi không lấy
làm thích lắm tính tình độc đoán của Thành. Đi chơi với nhau nhiều, tôi nhận thấy
hơi khó kết thân với Thành và cũng muốn bớt gặp nhau, tuy nhiên tôi còn lưỡng
lự vì chiếc xe gắn máy. Biết ý tôi thích xe nên lần nào gặp nhau hay hẹn hò đi chơi
Thành đều giao cho tôi lái. Nhiều người quen biết gặp Thành và tôi chở nhau trên
chiếc xe gắn máy, vô tình nói lại cha mẹ tôi nghe. Thế là tôi bị cha mắng cho
một trận. Từ đó năm bảy ngày tôi mới dám gặp Thành một lần. Nhưng chẳng hiểu tại
sao mỗi lần lén lút đi chơi với Thành là hầu như cha tôi đều biết, mặc dù tôi
đã cố tránh mọi người. Cha tôi cho rằng tôi không nghe lời, vì vậy gần đến ngày
tựu trường, ông quyết định gửi tôi lên nhà chú Tánh, em ruột của cha tôi trên Dalat để ăn học và xa cách Thành.
Lúc đầu tôi quyết liệt từ chối
việc đi xa nhà, nhưng cha tôi không nhượng bộ. Ông đích thân dẫn tôi lên nhà
chú Tánh. Tại đây tôi thấy hai người bàn bạc to nhỏ với nhau, sau đó chú tôi
dắt tôi lên trường Trung học Trần Hưng Đạo để xin cho tôi vào học lớp đệ tam.
Nhìn thấy ngôi trường nằm trên đồi soi bóng mặt hồ, tôi rất thích nên cũng bớt
đi nhiều buồn phiền. Hai cha con tôi về lại Saigon để tôi thu xếp đồ đạc, chuẩn bị chuyến đi xa
nhà lần đầu tiên trong đời.
Tôi rời Saigon vào một buổi sáng sớm
trời mưa. Bịn rịn chia tay mẹ và các em
rồi cha tôi đưa tôi ra bến xe bằng chiếc Vespa của ông. Trên đường đi, cha tôi
dừng xe ở một tiệm phở để cùng nhau ăn
sáng. Tính tình của cha tôi nghiêm khắc nhưng chắc trong lòng cũng buồn khi xa
tôi. Trong lúc ngồi ăn, ông khuyên tôi nên lo chuyện học hành, đừng mơ màng
những chuyện hão huyền. Ông cũng khuyên tôi sau này nên học sư phạm, vì làm
thầy giáo thì bắt buộc phải có cuộc sống đạo đức, sau nữa là cái nghề thầy giáo
có làm có ăn, không thể hoặc ít khi có
thể nhận bổng lộc nào khác. Ra đến bến xe, cha tôi mua vé xong, cả hai cùng đứng đợi giờ xe chạy. Thấy
tôi buồn buồn, như để động viên tình thần, cha tôi bảo nếu sau nửa năm học trên
Dalat mà kết quả học tập tốt thì sẽ thưởng cho một chiếc xe gắn máy. Tôi xúc động
vì phải đi xa nhà và tình thương của cha mẹ, cố giữ không để rơi nước mắt tôi bước nhanh lên xe. Khi xe chạy khuất ra khỏi ngã tư còn thấy cha tôi đứng nhìn theo. Tôi tự hứa sẽ cố gắng
không làm cha mẹ tôi phải buồn vì tôi nữa.
Nhà chú Tánh ở Dalat khá lớn. Chú thím chỉ có hai người con, một trai một gái đều
nhỏ tuổi hơn tôi. Tôi được một phòng riêng rộng rải trên lầu, sáng sủa và ấm
cúng. Chú làm ăn khá giả nên không tính
toán gì về chi phí ăn ở của tôi với cha mẹ tôi, chỉ yêu cầu tôi dạy học thêm
cho hai đứa em. Tôi còn có may mắn được chú Tánh mua ngay cho một chiếc xe gắn
máy mới tinh để đi học. Chú nói vì thấy khoảng cách từ nhà đến trường khá xa,
mà Dalat lại nhiều dốc đồi, sợ tôi đi xe đạp mệt, không còn sức học tập. Dĩ
nhiên là chú có thương tôi thật, nhưng tôi cũng hiểu mua xe cho tôi, ngoài việc
tôi đi học còn có thể chở thím đi công chuyện những khi chú bận, và lại còn
được lòng cha mẹ tôi vì biết lo cho cháu. Dù gì đi nữa thì tôi cũng được một
chiếc xe Puch ba đèn, ba số, chạy êm như ru. Thói đời được voi đòi tiên, tôi lại
ngắm nghía chiếc xe Peugoet 403 màu xanh đen bóng loáng mà mỗi tuần chú Tánh cho
phép... rửa!
Trong thời gian ở Dalat, tôi chỉ
chú tâm vào chuyện học hành và vui chơi với các bạn. Dalat đã cho tôi một khung
trời êm đẹp, bình yên. Thỉnh thoảng có nghe tin tức của Thành qua báo chí, vì
Thành sinh hoạt trong Tổng hội sinh viên học sinh. Từ ngày rời Saigon, tôi không còn liên lạc gì
với Thành nữa. Thời gian êm đềm trôi qua, học xong trung học tôi xin vào trường sư phạm như ý của cha tôi. Tốt
nghiệp xong tôi được nhận dạy học ở Dalat, rồi gặp Hiền để trở thành vợ chồng, rồi
con cái ra đời... Tôi sống an phận với nghề thầy giáo. Cha tôi
đã có một thời theo Việt minh, chắc vì
vậy mà ông có kinh nghiệm để nhận xét về Thành. Còn với tôi, có lẽ cha tôi đã
nhìn thấy trước sự tầm thường của đứa con trai đầu lòng của ông; sẽ chẳng làm
nên vương nên tướng gì cả thì đừng để bị cuốn hút vào chuyện cách mạng với chủ
nghĩa.
Tôi yêu mến Dalat nên tin tưởng sẽ sống mãn đời ở đó, nhưng cuộc đời không như tôi suy nghĩ. Sau ngày miền nam thất thủ, gia đình tôi kẹt lại ở Dalat trong khi cha mẹ và các em tôi đều di tản sang Mỹ. Bốn năm sau gia đình tôi mới vượt biên và định cư ở Canada cùng với tất cả gia đình Hiền. Bây giờ tôi mang một quốc tịch khác với cha mẹ và các em tôi. Nhớ lại buổi sáng trời mưa năm nào, cha tôi đưa ra bến xe đi Dalat, đó cũng là lần tôi rời gia đình và mãi mãi không còn được gần gũi nữa!
***
Khoát và tôi đứng nói chuyện một
lúc thì có thêm vài người bạn tụ lại, trong đó có Đức, anh là người bạn láng giềng của gia đình
tôi ở Saigon, sau khi chào nhau, hỏi thăm nhau về gia đình của hai bên, rồi tỏ
vẻ chán chường anh nói:
- Thấy
tuyết ngập trời thật là chán, tôi chỉ muốn về lại Việt Nam, sáng sáng ra đầu
ngõ uống ly “xây chừng” ngắm nhìn thiên hạ qua lại mà vui!
- Bây giờ
anh muốn về cũng được mà, anh đã nghỉ hưu rồi chứ gì?
- Thì tôi
đã nghỉ hưu được hơn một năm nay, nhưng muốn về cũng phải chờ thay đổi chế độ
trước đã.
- Anh có “nợ
máu với nhân dân” đâu mà phải sợ, anh chẳng có dính dáng gì với ngụy quân ngụy
quyền mà?
- Đúng vậy,
với chế độ mới lý lịch của tôi rất tốt, tuy nhiên thấy những hành vi chướng tai
gai mắt của họ tôi không chịu được.
- Nghe
nói bây giờ thay đổi nhiều lắm rồi anh ơi! Thiên hạ về hà rầm anh không biết
sao?
- Biết là
vậy nhưng tôi vẫn chưa thay đổi được
thành kiến...
Một người có lẽ là bạn của Khoát
đứng bên cạnh nghe chuyện bèn lên tiếng:
- Về Việt
Nam hả! Không bao giờ tôi về, bố tôi chết trong trại học tập cải tạo, nhà cửa,
tài sản của gia đình tôi từ mấy đời nay đều bị tịch thu, cả nhà tôi phải ra đi
với hai bàn tay trắng. Tôi không đội trời chung với chúng nó...
Nghe anh bạn nói vậy, tôi hình
dung đến số phận nghiệt ngã mà sau cuộc chiến đã có một số không ít gia đình phải
hứng chịu. Thật khó dùng từ ngữ nào để nói chuyện với anh ta trong trường hợp
như thế này.
Đang nói chuyện rôm rả thì Hiền đến nhắc tôi:
- Khoảng nửa
giờ nữa mình chuẩn bị về là vừa, tối nay có tuyết, đi đường nguy hiểm lắm.
- Ừ, em
làm gì thì làm khi
nào muốn về thì gọi anh.
Tôi lại tiếp tục nói chuyện cùng
các bạn cho đến khi Hiền trở lại mang theo áo lạnh cho tôi để chuẩn bị ra về. Bắt
tay từ giã và chúc Tết các bạn rồi cả hai chúng tôi mặc áo ấm cùng đi ra. Nhưng
khi vừa ra đến cửa thì gặp Thành bước vào. Gặp tôi, Thành nhìn một lúc rồi lên
tiếng:
- Có phải
là Giao không?
Tôi làm như không biết gì đáp:
- Phải,
tôi là Giao, còn anh có phải Thành không?
- Đúng!
Thành đây! Trời ơi! Lâu lắm mình mới gặp lại nhau phải không?
- Ừ! Có
đến hơn bốn mươi năm. Thành qua đây hồi nào, qua chơi hay định cư ở đây?
- Mình qua định cư luôn cùng với bà xã và mấy đứa nhỏ.
- À! Đây là Hiền, bà xã mình, còn bà xã Thành đâu?
- Nhà tôi
và mấy đứa nhỏ vừa ra về theo xe của ông
anh. Gia đình mình qua đây do anh ấy bảo lãnh, chắc Giao còn nhớ ông anh mình
chứ! Mình qua đây cũng vì muốn cho mấy đứa nhỏ có cơ hội học hành tốt hơn...
- Thành
đã có việc gì làm chưa?
Thành trả lời theo tiếng thở dài:
- Hiện
tại mình làm ở tiệm ăn của ông anh,
tương lai chưa biết ra sao. Dù muốn dù không thì cũng phải bắt đầu làm lại thôi!
Nói chuyện một lúc, tôi trao đổi
địa chỉ với Thành để liên lạc và nói lý do phải về sớm rồi chia tay.
Trên đường về, tuyết rơi lất phất,
hai bên đường những hàng cây trơ cành trụi lá, lạnh lẽo bao trùm không gian. Âm
thanh những khúc nhạc mừng Xuân phát ra từ cái đĩa nhạc Hiền mới mua, ca ngợi
nắng Xuân ấm áp, cỏ cây hoa lá xanh tươi
làm xót xa thêm nỗi lòng người xa xứ. Hiền im lặng lắng nghe nhưng bất chợt hỏi tôi:
- Anh Thành
gặp ở cổng ra có phải Thành hoạt động trong Tổng hội sinh viên học sinh ngày
xưa, đến 30 tháng 4 thì lăng xăng theo đoàn bộ đội vào Saigon không?
- Phải, nó
học chung với anh năm đệ tứ.
- Sau này
thấy anh ta cũng viết báo viết sách gì đó, năng nổ dữ lắm. Tưởng theo cách mạng
đã có quyền cao chức trọng rồi, sao bây
giờ lại chạy qua đây?
Tôi không muốn Hiền bàn sâu vào chuyện này nên cười trả lời cho qua
chuyện:
- Đâu có
phải ai theo cách mạng cũng có quyền có
chức đâu em! Muốn có quyền hành thì số phải tốt, cung quan lộc phải có tử phủ
vũ tướng, tả phù hữu bậc nữa chứ!
Đúng như ý tôi, Hiền chuyển đề tài:
- À! Anh nhớ
ông Tống, chồng bà Phương không! Đang làm ăn khá giả bên này, bây giờ về Việt Nam
thường xuyên, nghe nói có bồ nhí ở đâu bên đó rồi. Đàn ông thật tệ!... Mà cũng
chỉ vì cộng sản thôi, nếu biết lo cho dân giàu nước mạnh thì mấy ông bên này
đâu có đem tiền về mà mồi chài mấy cô gái trẻ bên đó được.
- Ai lại
kết án theo kiểu trăm dâu đổ đầu tằm như vậy hả em! Hậu quả nào cũng phải có
nguyên nhân của nó, chỉ vì ông Tống mà kết luận chung như vậy thì đâu có công
bằng.
Hiền không nói gì thêm, im lặng một lúc rồi lên tiếng:
- Cứ mỗi
lần đi chợ Tết như thế này em lại nhớ
Dalat, nhớ cái không khí lành lạnh của những ngày cuối năm, nhớ những năm êm
đềm sống với ba mẹ, nhớ tiếng pháo đêm giao thừa... Chắc hết cuộc đời mình cũng
không thể về sống lại ở Dalat, phải không anh?
Hiền nói phải, chẳng bao giờ tôi còn mong tìm lại được cuộc sống an phận ngày xưa. Có những ràng buộc cuộc đời tôi với xứ sở mới này và những khó khăn ngăn chặn đường về quê cũ. Tôi ngậm ngùi nghĩ đến thân phận của những người Việt tha hương ở thế hệ như tôi, những ưu tư của bao người phải bỏ nước ra đi vì lẽ này lẽ khác, mà mỗi khi Xuân về lòng nghe ray rức bởi tiếng réo gọi của cội nguồn. Tôi lại nghĩ đến Thành, trong lòng thương cảm và nhận ra mình còn có may mắn hơn Thành nhiều lắm. Tôi không trách việc Thành theo phía bên kia, ít ra Thành cũng là người sống có lý tưởng. Giờ đây, dù lý tưởng đó có phản bội hay không còn thích hợp với mình nữa, thì vẫn còn chút an ủi rằng mình đã sống một thời hăng say, sôi nổi. Chỉ tiếc thế hệ chúng tôi sinh ra vào lúc vận nước đang hồi đen tối, đầy những biến động khiến nhiệt huyết của tuổi thanh niên phải hao phí, lắm khi lại bị chà đạp phủ phàng. Nếu được sống ở một đất nước thanh bình, cái lý tưởng của Thành được đặt đúng nơi đúng chỗ sẽ cho một kết quả xứng đáng hơn, chứ đâu phải như bây giờ mới bắt đầu làm lại cuộc đời, khi tóc đã bạc màu, thân đã mệt mỏi mà tâm cũng chẳng an.
Mỗi năm, khi Xuân về trên đất Việt
xa xôi, tôi đều đi chợ Tết của cộng đồng người Việt, mong tìm lại chút hương
xưa ngày cũ của quê nhà. Một quê hương ngàn trùng xa cách, một quê hương tàn
phá bởi chiến cuộc lâu dài. Chiến tranh bom đạn thì đã qua hơn ba mươi năm,
những tàn tích trong chiến tranh như bom, mìn, súng đạn rơi vãi trên mặt đất,
dần dần được gom nhặt lại để phá huỷ, những hố bom mìn cũng được san lấp để
trồng lúa trồng rau. Nhưng cho đến bây giờ chiến tranh vẫn còn để lại ít nhiều trong lòng người dân Việt
khắp nơi những hố hầm cách biệt, bởi ý
thức hệ, bởi hận thù, bởi thành kiến... Quê hương Việt Nam thân yêu đó, vẫn có
người ra đi, vẫn có kẻ tìm về, nhưng biết đến bao giờ thì những hố hầm kia mới
được lấp đầy, để mỗi khi Xuân về, tôi đi chợ Tết sẽ không còn phải nghe đâu đó những
tiếng thở dài, than oán. Một mùa Xuân nào đó, người ta đến đây hoàn toàn chỉ vì
ý nghĩa của mùa Xuân: vui tươi, hy vọng, hạnh phúc... Tôi đã trông chờ mùa Xuân ấy từ mấy mươi năm nay,
nhưng rồi mùa Xuân vẫn cứ ở nơi đâu!
Hà
Đạo Hàm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét