Thứ Hai, 15 tháng 5, 2017

Những mùa Xuân Laval


Để tưởng nhớ đến các bạn
Võ Ngọc Bá, Đỗ Xuân Đài, Vũ Kiện,
Nguyễn Hùng Dũng, Huỳnh Hớn Kiệt

Hôm nay là một ngày cuối năm 1963. Học kỳ đầu tiên của một sinh viên mới như tôi thật là vất vả. Đến lớp thầy nói tiếng québécois không hiểu gì hết. Về nhà đọc sách cả Anh lẫn Pháp phải tra tự điển lu bù. Tuy nhiên cũng may là mọi môn thi đều trót lọt, bây giờ có hơn 2 tuần lễ vui chơi nhẹ nhõm. Thật ra thì cũng không có gì vui cho lắm vì cả résidence chỉ còn các sinh viên ngoại quốc, đại đa số sinh viên địa phương đã về nhà mừng Noel và ăn Tết.

Đang nhẹ bước trên hành lang sâu thăm thẳm và vắng tanh, bỗng dưng tôi nghe tiếng nhạc và tiếng người lao xao vọng ra từ một salle d’étude. Mở cửa bước vào thì hóa ra là các “đại ca” đang tập đàn và hát chuẩn bị cho ngày Tết Việt nam sắp đến. Đối với một người mới đến Laval chỉ mấy tháng thì ban nhạc đúng là gồm toàn “đại ca” như các anh Nguyễn Ngọc Định, Võ Ngọc Bá, Lộ Công Mười Lăm, Võ Bá Lộc. Chỉ có các anh Trần Văn Mười và Đỗ Xuân Đài là đến trước tôi chỉ 1 năm. Nhạc cụ gồm 2 đàn guitare, một đàn mandoline, một trống Bongo và một cái “xập xỏa”. Bên cạnh chỗ tôi ngồi là 1 đàn mandoline nữa, xem ra là đàn bán tại địa phương, tiếng đàn không được hay. Anh Lộc thì dùng một cây đàn mandoline loại mang từ Việt nam mang sang, tuy trông cũ kỹ nhưng tiếng đàn hay hơn nhiều.

Lúc tôi bước vào thì anh Lộc đang độc tấu mandoline bài “Dừng Bước Giang Hồ” của Hoàng Trọng và các người khác đệm đàn.  Lúc còn ở nhà, các anh chị em chúng tôi cũng có 1 cây đàn mandoline, thay nhau đàn hát lúc nhàn rỗi và bài tôi thích nhất đúng là bài Dừng Bước Giang Hồ này.  Thật sự mà nói, anh Lộc đàn thật điêu luyện lại thêm cây đàn mang từ VN sang, giọng trong thanh nghe rất hay. Tuy nhiên không hiểu sao tôi vẫn thấy có điểm gì không ổn. Nhân lúc mọi người đang nghỉ giải lao, tôi cầm cây đàn bên cạnh, dạo thử lại bài Dừng Bước Giang Hồ và nhận ra là anh Lộc đã bỏ mất 1 đoạn. Lúc đó mọi người đang nói chuyện ồn ào không ai để ý, chỉ có anh Lộc là nhận ra và yêu cầu tôi đàn lại. Sau khi nhận ra phần thiếu sót, anh Lộc đề nghị tôi tham gia và ban nhạc sẽ gồm 2 đàn mandoline. Thật ra lúc đó ở Laval chỉ có khoảng 40 sinh viên VN nên tìm người tham gia văn nghệ thật khó và có thêm được người nào thì càng “xôm tụ” hơn.  Và như vậy, tôi được chính thức tham gia ban nhạc và dĩ nhiên là được vào ban hợp ca luôn vì lúc đó chỉ có một mình anh Đài là ca sĩ chính trình diễn trong ngày mừng xuân Giáp Thìn năm 1964.

Sau Tết năm đó chừng vài tháng, một hôm, hai anh Định và Bá đến tìm tôi tại phòng. Đây là chuyện lạ, hai “đại ca” đến tận phòng để tìm “em út” thì là chuyện lớn rồi. Anh Định, lúc đó là Hội trưởng Hội sinh viên VN ở Laval, đề nghị tôi làm trưởng Ban Văn nghệ. Với tài đàn “tứng từng tưng” và hát “nghêu ngao” như tôi mà được vào Ban Văn nghệ là quá sức rồi, làm trưởng Ban thì không dám. Anh Định cho biết lý do là tôi thuộc nhiều bản nhạc cũng như lời ca cho nên rất cần thiết cho Ban Văn nghệ chỉ trình diễn dựa trên trí nhớ mà thôi. Hai anh hứa sẽ hợp tác như hiện nay, trưởng ban chỉ cần lo sắp xếp chương trình mà thôi. Tôi chưa tìm được lý do để từ chối nên yêu cầu được vài ngày suy nghĩ.

Đây là một vấn đề quan trọng với một “teenager”, vốn cũng không rành về âm nhạc và văn nghệ, cho nên tôi họp các bạn cùng lứa để bàn bạc. Nhóm bạn chúng tôi, là “em út” ở Laval vào thời điểm đó, lại rất hăng hái và ủng hộ rất nồng nhiệt. Các bạn được liệt kê sau đây dựa theo “cường độ” của sự ủng hộ là Vũ Kiện, Bùi văn Tâm, Trần khánh Thoại, Trần bửu Long, Nguyễn thanh Xuân, Nguyễn Dương. Ngay cả người ít nói nhất là Nguyễn cao Liêu cũng phát biểu “làm thì làm, sợ gì”.

Và thế là một người “ca không hay mà đờn nghe cũng dở” như tôi đã làm trưởng Ban Văn nghệ hội sinh viên Việt Nam ở Laval trong 3 năm liền. Rất may là các “đại ca” đã giữ đúng lời hứa và tận tình giúp đỡ. Riêng các bạn đồng lứa thì không chỉ ủng hộ suông mà hăng hái tham gia. Ban hợp ca bây giờ có thêm Tâm và Thoại. Vũ Kiện thì ngâm thơ. Ba năm với thật nhiều kỷ niệm trân quý và theo thời gian thì càng ngày càng trân quý hơn. Trong phạm vi bài này, tôi chỉ xin nhắc lại một vài kỷ niệm.

Vũ Kiện thì ca có lẽ còn tệ hơn tôi và không biết đàn nhưng là một nhà thơ và là một người có tâm hồn văn nghệ. Anh đã dựng nên màn múa “Trấn Thủ Lưu Đồn” khá công phu. Tuy nhiên, nhớ nhiều nhất vẫn là tài ngâm thơ với bài thơ “Hồ Trường” bất hủ của Nguyễn Bá Trác mà chúng tôi nghe mãi không chán:

Vỗ gươm mà hát
Nghiêng bầu mà hỏi
Trời đất mang mang ai người tri kỷ
Lại đây cùng ta cạn một hồ trường

Nghe thật bi tráng lại vừa lãng mạn. Cho dù “chí chưa thành, danh chưa đạt” nhưng chỉ cần có rượu, có tri kỷ thì “hà tất cùng sầu đối cỏ cây”.

Vài năm sau đó có thêm một sinh viên (không nhớ tên) biết đàn (guitare) vọng cổ và hát cải lương. Tôi là người Huế, vốn không thích cải lương, thậm chí danh từ “cải lương” có khi được dùng để chỉ sự quê mùa. Thế nhưng xa quê hương khá lâu cho nên tất cả những gì thuộc về quê hương đều hay đều đẹp hết. Nhờ đó tôi mới học thêm được cải lương là một phần quan trọng trong văn hoá của Việt nam mà từ trước đến giờ tôi đã bỏ quên.

Nói tóm lại, chương trình văn nghệ của những năm đó khá phong phú, với tiếng đàn của anh Lộc, ban hợp ca với giọng ca chính của anh Đài, ngâm thơ với Vũ Kiện và lại thêm màn vọng cổ nữa. Chỉ có điều làm tôi ái ngại nhất là Viện trưởng lúc đó là Mgr Vachon, năm nào cũng đi dự cho dù có lẽ ông không thể nào hiểu được những gì trình diễn trên sân khấu. Tuy nhiên đó cũng là điều làm tôi kính nể và luôn nhớ đến vị Viện trưởng này.

Năm 1966, xuân Bính Ngọ, đúng vào ngày chúng tôi chuẩn bị mừng xuân thì nhiệt độ xuống đến -40 độ. Lúc đó ở Canada còn dùng độ F nhưng dù là F hay C thì cũng là đều -40, ngày lạnh nhất trong suốt thời gian tôi ở Québec. Tất cả các xe “cà tàng” của chúng tôi đều không nổ máy. Ngay cả hai người có xe “xịn” nhất vào lúc đó là các anh  Định và BV Rê cũng nằm ụ. Cuối cùng chỉ có một chiếc xe con cóc Volkswagen (nếu tôi nhớ không lầm là của anh LV Định, tức Định U) là không có vấn đề gì. Lý do là loại xe này không dùng hệ thống làm nguội bằng nước. Vào thời đó những cái haut-parleur lớn gần bằng cái tủ lạnh, phải thật vất vả mới có thể đưa vào xe từng cái một dưới trời lạnh đúng là cắt da. Rồi còn dụng cụ, ampli, đàn, tất cả đều trở thành quá khổ đối với chiếc xe. Phải cần đến năm sáu chuyến mới chuyên chở hết đồ đạc đến Pavillon Pollack. Lại thêm mối lo lắng là không biết mọi người có đến được để tham dự không. Rất may là đến xế chiều thì các xe dépanneur đã bắt đầu ít khách và đến tối thì mọi người đến tham dự đông đủ, mừng xuân trong không khí ấm cúng.

Kỷ niệm mà tôi nhớ nhiều nhất là màn múa đũa do anh Lâm quốc Nghị đề ra. Vào thời đó, đây là màn múa cần nhiều kỹ thuật nhất, vì phải tập đánh đũa cho thật nhuần nhuyễn để sau đó lúc di chuyển sẽ không bị sai nhịp. Vì màn múa dựa trên bản nhạc “Ươm Tơ Tằm” nên bắt buộc phải có nam lẫn nữ và chỉ tiêu khiêm nhượng chúng tôi đặt ra là 2 nam và 2 nữ cũng gặp khó khăn. Thật ra thì các chị cũng rất hăng hái tham gia văn nghệ và đã từng trình diễn hai màn: “Múa Tiên” dựa trên bài Thiên Thai của Văn Cao và màn “Múa Nón” dựa trên bài Ly Rượu Mừng của Phạm đình Chương. Tuy nhiên đây là các màn múa gồm toàn các chị. Màn múa gồm nam và nữ duy nhất là màn “Trấn Thủ Lưu Đồn” thì vai nữ do anh Đài giả dạng. Vào những năm 60, kỷ luật ở Laval thật nghiêm minh, gần như là “nam nữ thụ thụ bất thân” cho nên rất khó khăn tìm chỗ để tập dượt. Vì vậy chúng tôi quyết định lựa 2 nam sinh để đóng vai nữ. Trong tất cả các nam sinh thì anh Nghị có lẽ là người duy nhất tối nào cũng xoa kem dưỡng da trước khi đi ngủ cho nên da dẻ mịn màng và là nhân tuyển thích hợp. Người thứ hai thì khó khăn hơn. Đáng lẽ anh Đài cũng là nhân tuyển thích hợp nhưng anh đã trình diễn nhiều màn khác rồi và màn múa đũa cần rất nhiều thì giờ để tập dượt. Cuối cùng anh Nghị tìm được người cùng lứa với anh là Lương Châu Phước. Có người nhận giả gái trình diễn là mừng rồi nhưng nhìn anh Phước tôi không thể nào không nghĩ đến câu tả chân thật tàn nhẫn của Vũ trọng Phụng trong truyện ngắn “Lấy Vợ Xấu”: (chị Phước) “là một người đàn bà có cái nhan sắc của một người đàn ông không đẹp trai”.  Tuy nhiên anh Phước rất hăng hái và nhiệt tình và 4 người chúng tôi (ĐV Phước, tôi, Nghị và LC Phước) đã bỏ nhiều thì giờ và công sức để hoàn thành màn múa này.


Nhưng như thế cũng chưa hết. Trong đầu óc non nớt nhưng cầu kỳ của tôi, vì nghề nuôi tằm dệt tơ vốn phát xuất từ miền Bắc nên trang phục phải là của miền Bắc và đẹp nhất vẫn là áo tứ thân. Dự trù là như vậy nhưng thật ra tôi cũng không biết áo tứ thân trông như thế nào. Vì vậy đành bắn tiếng nhờ mấy chị giúp nhưng không có ai nhận lời cả. Và cuối cùng tôi có cái quyết định liều lĩnh là tự mình may lấy. Nói là liều lĩnh nhưng thật ra tôi cũng có vài kinh nghiệm về may vá. Trong nhà có cái máy may và lúc mới 13 tuổi thì chị của tôi sắp có đứa cháu đầu lòng. Tôi đã tình nguyện nhận may tã và ráp mấy cái áo cho em bé. Từ kinh nghiệm đó tôi thường tự vá hay sửa lại áo cho mình. Còn nhớ học sinh đi học thì phải mặc áo trắng. Với khí hậu vừa nóng vừa ẩm của Việt nam nói chung và của Huế nói riêng thì buổi sáng áo còn trắng tinh, đến chiều thì đã có một quầng đen sậm trên cổ. Muốn giặt phải dùng bàn chải chà xát thật mạnh. Chẳng mấy chốc thì cổ áo đã sờn rách trong khi cái áo thì vẫn còn tốt. Tôi chỉ cần tháo cổ áo ra, quay 180 độ và may vào trở lại. Chỗ sờn rách bây giờ ở phía sau và phía trước vẫn còn đẹp như áo mới và nhờ đó tuổi thọ của cái áo tăng lên gấp đôi. Còn nhớ khoảng ba bốn năm sau khi Tổng Thống Ngô đình Diệm về chấp chánh, một trong những cải cách theo đường hướng tự túc tự cường là mở hãng dệt vải nội hoá. Đám học sinh chúng tôi được mua loại vải xanh may quần dưới nhãn hiệu CITA. Khỏi cần nói cũng biết trong những năm đầu, phẩm chất của loại vải này thua xa vải kaki của Pháp. Đặc biệt là kỹ thuật nhuộm thì quá kém cho nên chỉ dùng chừng chưa tới 1 năm là bạc màu, loang lỗ, trông thật bệ rạc cho dù với học sinh nghèo như chúng tôi. Giải pháp ? Cũng tương tự như cổ áo nhưng rắc rối hơn nhiều. Phải tháo toàn bộ cái quần ra, lật ngược lại, có nghĩa là ống quần bên trái thành bên phải và ngược lại. Sau khi ráp vào thì màu xanh ở phía trong vẫn còn đẹp đẽ sẽ ra phía ngoài và quần có thể xài thêm được 1 năm nữa. 

Với những kinh nghiệm “tào lao” đó, tôi đã mua vải, đo kích thước của hai nàng “kiều nữ” và bắt đầu may áo tứ thân. Không có máy may nên phải may bằng tay. Nhưng điều này trở thành một lợi điểm. Hư chỗ nào thì tháo ra dễ dàng và vá thêm một miếng nữa hay cắt bớt một khúc. Nếu có người nào ở hậu trường nhìn 2 chiếc áo thì không biết đó là cái gì. Thế nhưng lúc ra sân khấu thì trông cũng không đến nỗi nào. Chỉ có một vấn đề nhỏ là các nàng “kiều nữ”, ngoài chuyện phải đánh đũa cho nhuần nhuyễn và di chuyển cho đúng nhịp thì còn thêm là động tác phải “khoan thai”, nếu không thì… rách áo.

Những người đã từng làm văn nghệ đều biết là những lúc vui vẻ và nhiều kỷ niệm nhất không phải là lúc trình diễn mà là lúc tập dợt. Đó là lúc mà tất cả mọi người cùng vui đùa, tâm sự cũng như đều cùng cố gắng để các màn trình diễn được hoàn hảo hơn. Nhờ những sinh hoạt đó tôi đã có thể làm quen với các “đại ca” hơn tôi đến 3, 4 lớp cũng như các bạn sau tôi 2, 3 năm. Sau đó, qua các sinh hoạt thể thao, tôi còn thêm một số bạn thân trẻ hơn nữa. Tất cả những người bạn đó đã là những sợi dây kết chặt tôi với ngôi trường Laval thân yêu. 

Tôi đã sống ở Mỹ hơn nửa đời người và đã nhận nơi này làm quê hương nhưng dù sao cũng chỉ là quê hương thứ ba. Quê hương thứ hai của tôi vẫn là Laval, là Québec, nơi tôi đã lớn lên và trưởng thành, nơi tôi có nhiều bạn bè đủ lứa tuổi với nhiều kỷ niệm luôn đầy ắp, không bao giờ phai nhạt.

Viết trong những ngày Xuân 2017

Lê khắc Huy          

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét