Nguyễn Duy Vinh |
Chúa Giê Su là
hiện thân của Đức Chúa Cha trên trần gian, ra đời để cứu rỗi nhân loại và để lại
tất cả những lời răn dạy của mình đã được ghi lại trong Thánh Kinh (Bible).
Cách sống theo tuệ giác của Ngài Giê Su được gọi là Đạo Chúa.
Đức Phật Thích
Ca sau bao nhiêu năm (và bao nhiêu kiếp) dày công tu luyện, đạt được cái thấy lớn
và Ngài đã đem hết những năm tháng còn lại sau khi giác ngộ giảng dạy cho những
người muốn học theo hạnh và sự hiểu biết của Ngài. Trải qua hơn 2600 năm, tuệ
giác của đạo Phật giống như những cây trái được gửi đi ươm trồng khắp nơi. Những
cây tuệ giác này đơm bông và mọc hùng mạnh hay yếu ớt tùy vào hoàn cảnh nơi cây
được ươm trồng.
Sau 2600 năm,
các Thầy các Tổ sống theo đạo Phật cũng đã đạt được những tuệ giác lớn. Từ Long
Thọ, Thế Thân ở Ấn Độ cho đến Bồ Đề Đạt Ma khi Ngài sang Trung Quốc vào đầu thế
kỷ thứ 6 sau công nguyên. Việt Nam ta có Ngài Khương Tăng Hội mở đầu kỷ nguyên thiền
tông vào đầu thế kỷ thứ ba và đạo Phật như thế đã đến Việt Nam ít nhất là 300
năm trước khi Ngài Bồ Đề Đạt Ma đặt chân đến Trung Quốc. Ngài Khương Tăng Hội
sau này sang Trung Quốc hoằng pháp và Ngài tịch ở Nam Kinh.
Trong những công
trình đóng góp vẻ vang về sau này cho đạo Phật Trung Quốc chúng ta phải kể đến việc
thỉnh kinh từ Ấn Độ và việc dịch rất nhiều kinh sách của Thầy Huyền Trang vào
thế kỷ thứ 7. Cây đạo Phật ở Trung Quốc đã đơm bông từ thời các tổ Huệ Khả, Thần
Tú, và Huệ Năng và những bông hoa đẹp đó tiếp tục kéo dài cho đến tổ Lâm Tế
(Lin Chi, thế kỷ thứ 9). Pháp môn của Lâm Tế cũng lan đến Việt Nam, cây tuệ
giác đạo Phật Việt Nam lại một lần nữa nhận được những cơn mưa Pháp từ phương Bắc
đến với sự ra đời của phái Liễu Quán ở miền Trung Việt Nam. Từ thế kỷ 13, đạo
Phật đã đến thời kỳ hưng thịnh nhất Việt Nam và thời kỳ đó cũng là thời kỳ mà
dân tộc Đại Việt có cơm no áo ấm, vua tôi đoàn kết chặt chẽ như chưa bao giờ từng
có trong lịch sử Việt Nam. Các vua đời nhà Trần như Trần Thánh Tông, Nhân Tông,
và Anh Tông đã góp công không nhỏ trong việc làm sống lại cách sống đẹp của văn
hóa Phật giáo Việt Nam với sự ra đời của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử vào thế kỷ thứ
13.
Tuy nhiên tu thì
tu, ở đây tôi xin tạm mở một ngoặc đơn là các vua nhà Trần cũng đã biết lúc nào
phải bỏ tu và họp nhau lại tìm cách chống quân Nguyên đang xâm lăng đất nước, bắt
đầu với việc tham khảo toàn dân trong Hội Nghị Diên Hồng (năm 1284) và đã sau
đó cùng toàn dân đại thắng quân Nguyên, giành lại độc lập cho nước Đại Việt.
Tên của những nguyên soái đại tướng tài giỏi như Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải,
Phạm Ngũ Lão v.v…được sử sách ghi công và được toàn dân Việt Nam mãi mãi ghi ơn.
Vận nước Việt Nam vào đời nhà Trần là một vận nước có nhiều thuận duyên nhờ vào
công lao hiển hách của các đấng anh quân, những vị vua trị vì có lòng vì dân vì
nước. Đạo Phật vào đời nhà Trần chắc chắn đã có những ảnh hưởng lớn trên những
quyết định chính trị của các vua nhà Trần và sự đoàn kết dân tộc thời bấy giờ.
Tôi xin tạm gác đề tài này sang một bên và sẽ xin hầu chuyện với các bạn về ảnh
hưởng của Phật giáo đời Trần trong một lần tản mạn khác. Ở đây tôi xin trở về
chủ đề của bài viết, về cái thấy lớn của đạo Phật.
Cái thấy lớn của
đạo Phật được gói ghém trong rất nhiều kinh. Từ Kinh Bát Nhã cho đến Tâm Kinh
Bát Nhã và các kinh lớn khác như Hoa Nghiêm, Pháp Hoa và Kim Cương v.v... Những
cái thấy lớn đó thường được diễn đạt bằng những danh từ thật cô đọng, giống như
người ta đóng một cái dấu lên một nghị quyết. Danh từ cô đọng đó còn được gọi
là dấu ấn trong đó có 3 cái ấn rất quan trọng. Ba cái ấn (Tam Pháp Ấn) này cũng
giống như những cái ấn của các ông lãnh đạo nước dùng khi ký nghị quyết, nghị
quyết nào mà không có chữ ký của các ông ấy cũng như không có con dấu của nhà
nước là không có hiệu lực. Đạo Phật cũng thế, những lời giảng dạy nào mà không
có ba dấu ấn này có thể được coi như không phải là đạo Phật chính tông.
Tam Pháp Ấn của
đạo Phật là Vô Ngã, Vô Thường và Niết Bàn.
Khái niệm về vô
ngã không khó hiểu (riêng sống thực chứng được cái thấy vô ngã thì trần ai !).
Vô ngã nôm na là không có ngã, không có cái ta riêng biệt. Tỉ dụ như tờ giấy được
làm từ cây cối, người và máy cắt cây, những cơn mưa, mặt trời, máy nghiền cây
vân vân…Tờ giấy như vậy được làm bởi những chất liệu không-phải-là-tờ-giấy. Tờ
giấy vì thế không có cái “ta” riêng biệt mà chỉ hiện hữu nhờ vào những cái ta
không riêng biệt khác.
Khi một nguyên
nhân hay yếu tố cấu tạo nên cái “ta” không riêng biệt đó bất thình lình suy sụp
hay vắng mặt, cái “ta” đó sẽ không còn trọn vẹn và khi trường hợp này xảy ra,
chúng ta gọi đó là vô thường. Lấy một chân cái bàn đi, cái bàn sẽ đổ. Cái bàn
không có cái ta riêng biệt (vô ngã) nên khi một yếu tố không-bàn (như chân bàn)
mất đi, cái bàn đổ (vô thường).
Sự liên hệ chằng
chịt này là chìa khóa của mọi sự sinh thành, tăng trưởng, tồn tại và hoại diệt của
mọi hiện tượng tâm lý, sinh lý và vật lý trên thế gian cũng như trong vũ trụ.
Cái này có nên cái kia có, cái này không thì cái kia cũng không (Kinh A Hàm). Hiểu
được cái nhìn vô ngã vô thường này, chúng ta sẽ biết ơn những gì chúng ta nhận
được mỗi ngày và chúng ta sẽ biết trân quý những gì chúng ta có, nhất là sức khỏe
của chúng ta. Chính sức khỏe này cũng được làm bởi những thứ không-là-sức-khỏe.
Sức khỏe con người được làm bởi thức ăn hằng ngày, không khí ta thở, tình trạng
tâm lý và mực độ phiền não khi phải bươn chải trong cuộc sống, tình yêu thương
đùm bọc của người thân v.v... Môi trường an sinh trong thế giới thu hẹp quanh
ta vì thế rất quan trọng. Săn sóc và lo cho những gì quanh ta cũng chính là lo
cho sức khỏe của mình. Cái nhìn vô ngã giúp chúng ta nhìn thấy tầm quan trọng
trong sự ô nhiễm môi sinh.
Vận nước Việt
Nam cũng không thoát khỏi tính chất vô ngã, vận nước đó gắn liền với sự lãnh đạo
của nhà cầm quyền, của dân trí và hạnh phúc của người dân trong nước, cũng như sự
mưu toan xâm lấn của ngoại bang như gần đây nhất với vụ xâm chiếm biển Đông của
Trung Quốc. Hiện nay nhìn vào tình cảnh quê hương với cặp mắt vô ngã, chúng ta
thấy xã hội Việt Nam đang có nhiều khó khăn trên rất nhiều phương diện. Dân Việt
Nam đông đúc tranh sống trên một mảnh đất bé nhỏ. Không chỗ nào mà không có xây
cất, nhà cửa bằng xi-măng mọc lên khắp nơi. Có nhiều nơi, người ta đã chặt hết
cây và thay vào đó bằng những ngôi nhà cao tầng bằng xi-măng. Quản lý trên gần
90 triệu người chen chúc trong một nước nhỏ bé là một vấn đề nan giải cho nhà cầm
quyền.
Từ một nước
thoát thai ra khỏi một cuộc chiến kéo dài gần nửa thế kỷ kể từ cuộc chiến chống
đô hộ Pháp, con người Việt Nam, sau một cuộc bể dâu và những thăng trầm của lịch
sử, đã vươn lên với một sức sống mãnh liệt, với một khát khao vật chất qua những
năm thiếu thốn, như những làn sóng vỡ bờ, như một bầy ong vỡ tổ. Từ những khát
khao vật chất này, người có quyền lực trong nước đã biết lợi dụng quyền thế để
làm giàu. Tham nhũng và lạm quyền từ đó ra đời và đã đẻ ra những tệ nạn xã hội
rất lớn và cùng lúc tạo ra những quan chức mới, những đại gia có những gia tài
kết sù. Không ai có thể ngờ rằng chỉ sau 39 năm kể từ ngày “Bên Thắng Cuộc” chiếm
được miền Nam mà chế độ xã hội chủ nghĩa có thể đưa đến sự khác biệt giàu nghèo
ở Việt Nam lên cao đến độ không sách vở nào tả được. Từ những người cứ đêm đêm khi
trời vừa hừng sáng là họ đã phải xả thân chui vào những đống rác khổng lồ ở những
thành phố lớn như Hà Nội để moi móc kiếm sống cho đến những đại gia có những gia
tài hàng triệu đô la US. Một xã hội chủ nghĩa trong đó những chương trình y tế,
giáo dục và an sinh cho người dân thiếu thốn rất trầm trọng. Tình hình xã hội
Việt Nam không đẹp, nó có tính cách nhốn nháo, tạp nhạp, hỗn loạn và bất an. Bốn
chữ “xã hội chủ nghĩa” không phản ảnh trung thực những gì đang xảy ra ở Việt
Nam. Cho đến nay chưa có dấu hiệu nào cho thấy nhà cầm quyền lo cho an sinh người
dân trong nước. Tôi không thể nào tưởng tượng được một nước được hoàn toàn độc
lập mà quyền sống của người dân lại khó khăn đến thế. Chế độ quản trị của nhà
nước thì nặng chình chịch. Không biết ai lãnh đạo vì Bộ Chính Trị là cơ quan
lãnh đạo có đến 14 người. Người dân khiếu nại không ai nghe. Có hàng trăm kiến
nghị quan trọng rơi vào quãng không, không một tiếng trả lời, không một lá thư
hồi âm. Tình trạng rắn không đầu này đưa đến sự lộng hành của những cơ quan thừa
hành địa phương. Công an tỉnh, công an quận, công an xã, công an phường là những
ông vua con có tiếng nói thét ra lửa. Dân chúng sống trong bất công không biết
phải thưa cùng ai. Những người lên tiếng kêu ca khi bị đàn áp thì lại càng bị
đàn áp thêm. Tình trạng không có lãnh đạo cũng được biểu hiện qua việc xâm lăng
biển đảo của Trung Quốc. Sự chống đối yếu ớt và rụt rè hiện nay của nhà nước Việt
Nam là một thí dụ điển hình của việc rắn mất đầu trong việc lãnh đạo công việc
nước. Một tình trạng cai trị bê bối và thiếu nghiêm túc chưa từng có trong lịch
sử Việt Nam.
Vận nước Việt
Nam vì thế sẽ không khá. Những mảnh vụn rời rạc trong sự lãnh đạo và cai quản
nước sẽ làm tan khí phách Việt Nam trước sự đe dọa và xâm lăng biển đảo của
Trung Quốc. Nếu nhà cầm quyền Việt Nam biết tập nhìn (quán chiếu) tình hình xã
hội Việt Nam qua lăng kính vô ngã, họ sẽ thấy là hạnh phúc của họ cũng rất mỏng
manh. Vì hạnh phúc của chính họ cũng được làm bởi những yếu-tố-không-hạnh-phúc.
Họ không thể giữ mãi được những gia tài đồ sộ cho con cháu họ trong khi chung
quanh có quá nhiều người khổ. Họ không thể sống thảnh thơi khi tàu chiến Trung
Quốc rầm rộ tuần hành quanh các đảo Hoàng Sa Trường Sa. Hạnh phúc của những người
cầm quyền, những người lãnh đạo guồng máy nhà nước có liên hệ chằng chịt với hạnh
phúc của người dân.
Qua lăng kính đạo
Phật, chỉ có cách lo cho dân thực sự với tất cả tấm lòng, như tấm lòng thương
dân thương nước của các vua đời nhà Trần, may ra mới cứu vãn được tình thế. Còn
để tình trạng ù lì hiện nay tiếp tục trì trệ, các nhà lãnh đạo và Đảng Cộng Sản
Việt Nam sẽ phải đương đầu với những khó khăn và sự hỗn loạn khó lường.
(*) Tài liệu
tham khảo : Việt Nam Phật Giáo Sử Luận của Giáo Sư Nguyễn
Lang (Tập 1, 2 và 3), nhà xuất bản Lá Bối (California, USA) và hiện nay cũng có
bán trong nước tại các nhà sách lớn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét