Lời giới thiệu:
Chuyện kể sau đây về một người bạn đã mất tích, hy sinh trên đường về
chiến đấu giành lại Tổ quốc cách đây 20 năm. Họ biết nhau từ thời sinh viên son
trẻ cách đây đã 40 năm. Lịch sử đang không ngừng chuyển đổi, nhưng làm sao có
thể tách rời qui luật hôm nay là kết quả của hôm qua. Bài viết đi từ những kỷ
niệm ngắn về bạn: trang thư, tờ báo... nhưng đã phảng phất dấy lên đâu đây khí
thế dậy trời của những ngày đầu mưu cầu phục quốc và phần nào gợi lại không
gian của một thế hệ trẻ, thân xác dù lưu vong nhưng tâm hồn thì từng giây từng
khắc dành trọn cho đất mẹ Việt Nam. Viết về một người bạn là viết về một thời
khắc, một thế hệ, một quãng đời thanh xuân đáng sống nhất của tác giả. Bạn đã
hy sinh, tác giả chấm dứt bằng giòng sử liệu của Nguyễn Thái Học lên đoạn đầu
đài: bạn đã đi vào lịch sử, đi vào lòng muôn dân. Chia sẻ với tác giả niềm
thương tiếc bạn cũng là chia sẻ với Tổ quốc niềm hãnh diện về một anh hùng.
Về một người bạn đã hy sinh
Câu hát quen thuộc văng vẳng vang lên:
Vì hòa bình là ước mơ chung
Phải kiên gan chiến đấu không ngừng
Để lịch sử giở qua trang mới
Trang bắt đầu cho cuộc phục hưng*
đã đưa tôi trở về những ngày xưa cũ. Hình ảnh của anh cũng
chợt hiện ra nơi đây như để chia xẻ với tôi. Thân xác thì ở Nhật Bản
nhưng tâm hồn thì dành trọn cho những người đã lên đường chiến đấu và
đã hy sinh, đặc biệt cho người bạn có tên: Ngô Chí Dũng.
Ngô Chí Dũng (tháng 5-1980 tại Nam Cali hôm khai mạc triễn lãm hình ảnh Boat People) |
Tôi đã gặp
Vào cái tuổi của thời còn non trẻ, tuổi đầy ắp những mơ ước
đầy háo thắng, tôi gặp anh qua những sinh hoạt của sinh viên tại Nhật.
Anh hơn tôi một tuổi, học trên tôi một lớp, anh có khuôn mặt
trắng hồng, dáng vẻ của một cậu công tử xuất thân từ một gia đình
sung túc và nề nếp. Khoảng năm
1972, anh là một thành viên của nhóm thực hiện tờ “Tin Việt Nam”, tờ
báo duy nhất của nhóm sinh viên quốc gia thời đó. Sau đó, anh là
Trưởng Ban Báo Chí của Hội Sinh Viên Việt Nam tại Nhật Bản. Tôi là trưởng
ban văn nghệ, một thành viên của Hội nhưng sau anh một nhiệm kỳ, nên sự
giao tiếp với anh chỉ ở mức độ chào hỏi, xã giao bình thường. Với
những lần tiếp xúc ít ỏi thì dưới mắt tôi: anh là một công tử bột
chăm chỉ, thích chuyện chính trị. Những gì tôi biết về anh chỉ có
thế. Sự giao tình với anh cũng chỉ ở mức bình thường nếu không có
biến cố 30/4/1975.
Sau cuộc đổi đời đau đớn, tập thể sinh viên du học tại Nhật có
khoảng trên dưới 800 người, ngoại trừ một số nhỏ thuộc thành phần thiên tả là
tỏ vẻ vui mừng, số còn lại mặc dầu có tinh thần quốc gia không chấp nhận
cộng sản nhưng tất cả đều rơi vào tâm trạng hoang mang, chán nản vì không
còn nơi nương tựa. Hơn nữa, nhìn về quá khứ, Nhật Bản vốn là nước không có
những chính sách tiếp nhận người lưu vong một cách mặn mà nên hầu như ai cũng
tính chuyện phải tìm một chỗ để an tâm sống cuộc đời còn lại. Muốn như thế
thì cũng phải có một tư thế, có nghĩa là phải có tổ chức, ủy ban
đại diện thì những nguyện vọng, yêu sách mới may ra có kết quả. Cái
khó là ai cũng mang tâm trạng bất an, lo sợ, nên chẳng có mấy ai dám
nghĩ đến chuyện dấn thân “ăn cơm nhà vác ngà voi” đầy bất trắc như
vậy. Đúng lúc đó, anh xuất hiện. Tôi còn nhớ mãi câu nói của anh
trong một buổi họp tại cư xá sinh viên vào những ngày giữa tháng 5/1975: “Tôi
xin là người trách nhiệm đại diện anh em nếu mọi người đồng ý”. Mọi
người vỗ tay, anh nói tiếp: “Thế thì xin tất cả im lặng để Ủy Ban
làm việc”. Hội trường với mấy trăm con người đang xì xào bỗng im phăng
phắc. Tổ chức có tên “Ủy Ban Tranh Đấu Cho Tự Do người Việt tại Nhật Bản” mà
anh là người “đứng mũi chịu sào” đã ra đời vào những tháng ngày
cực kỳ khó khăn đó.
Đầu tiên thì hoạt động của Ủy Ban này chỉ có mục đích là đi tìm những
quốc gia hay những nơi có qui chế tỵ nạn cởi mở tiếp nhận số sinh viên nào
không chấp nhận chính quyền việt cộng. Vài tháng sau, mục đích cuộc đấu
tranh cho người Việt tại Nhật đã mở rộng hơn thành cuộc đấu tranh
đòi hỏi tự do cho dân Việt. Ngày 1/11/1975 tại Tokyo, một tổ chức có tên là
Nhóm Người Việt Lưu Vong mà tiền thân là “Ủy Ban Tranh Đấu Cho Tự Do người
Việt tại Nhật Bản” đã ra một bản minh định lập trường, gồm những điểm chính
như: chúng tôi vẫn tiếp tục theo đuổi cuộc chiến đấu chống cộng sản của cha anh
chúng tôi dù đã thất bại - chúng tôi chiến đấu không vì mặc cảm, mà vì lòng tự
trọng của những người trẻ muốn đóng góp sức lực của mình vào cuộc chiến đấu
giành lại tự do - nhân bản. Chúng tôi mong mỏi mọi người và thế giới ủng hộ
chúng tôi. Sau đó thì nhóm người Việt lưu vong được đổi thành Tổ Chức Tranh Đấu
Cho Tự Do của Người Việt và cuối cùng là Tổ Chức Người Việt Tự Do. Tôi tâm
phục anh từ đó.
Những kỷ niệm khó quên
- Khi đã “kết” nhau, tôi và anh đã có nhiều dịp trao đổi hơn
về mọi mặt. Nói anh sinh ra để “làm chính trị” cũng không ngoa, vì
bất cứ chuyện gì từ vui hay buồn khi nói chuyện với anh, cũng “bị”
anh kéo về chuyện chính trị hay là chuyện Việt Nam. Xin kể một câu
chuyện về anh mà tôi nghe được. Một hôm, tôi cùng anh và một số bạn đến
thăm đồng bào tại một trại tị nạn để hỏi thăm về tình hình Việt Nam,
nói chuyện được một lúc thì trời đổ mưa tầm tã, một cô trong nhóm
“than thở”: “Thấy mưa nhớ Việt Nam quá anh Dũng ạ”, anh cười cười và
đáp ngay: “Nói đến mưa mới nhớ đến chuyện ở bên Ý, kỳ rồi đảng cầm
quyền đã mất ghế vì đã không có đối sách kịp thời khi mưa lớn
khiến có vài người thiệt mạng” (đại khái tôi nhớ là như vậy). Mắt
cô gái tròn xoe tỏ vẻ ngạc nhiên, có lẽ là vì cô tưởng câu trả lời
của anh phải mang một ý nghĩ chia sẻ thông thường.
- Nhớ có lần trong một buổi tối mùa đông ngồi đóng, gói báo
Người Việt Tự Do để gửi đi, cạnh cái lò sưởi nhỏ, bên ngoài còn
nghe rõ tiếng gió rít qua khe cửa, anh hỏi tôi: “Ông có thấy là mình
kỳ cục khi làm những chuyện mà có người cho là chuyện dễ ợt không?”
Tôi hỏi lại: “Ông muốn nói chuyện gì?”, “Chuyện mình đang làm nè,
chuyện đóng báo gửi đi nè”. Câu chuyện bỏ lửng ở đó, nhưng sau đó tôi
hiểu ý anh muốn nói: “Dễ thì dễ thật, nhưng mà có mấy ai dám bỏ
tất cả để đi làm chuyện dễ ợt hay không”, vì ban chiều có một vài
người bạn ghé nhà, thấy anh đang cắm cúi, cắt dán từng địa chỉ, có
người phán một câu: Mấy chuyện này thì dễ ợt, ai làm chả được.
Những người học cùng năm với anh, sau khi ra trường đã chạy đôn
chạy đáo tìm việc để ổn định cuộc sống, để giúp đỡ gia đình, toàn
là những lý do chính đáng, nhưng anh lại đi ngược dòng, anh đã rất
“tiêu cực” trong việc tìm cho mình một đời sống an định, anh chỉ làm
những công việc part-time không bó buộc giờ giấc, vừa đủ trang trải
cho một cuộc sống đơn giản nếu không nói là đạm bạc để dành thì
giờ hoạt động. Anh không thụ động ngồi yên nhìn những ước mơ của
mình trôi theo năm tháng, anh đã đi đây đi đó, kết hợp vận động để mưu
tìm cho mình những điều mà lúc đó có thể chỉ là những ước mơ
ngoài tầm tay: Mai này chúng ta cùng về Việt Nam.
- Trong những lần công tác tại Hoa Kỳ, khi về lại Nhật, lúc
nào anh cũng có quà cho tôi; khi thì khoanh giò lụa, lúc thì cái
bánh chưng, lúc thì vài quả hột vịt lộn.... và lần nào anh cũng
nói: Định mang về cho ông nhiều hơn, nhưng sợ tụi phi trường nó lấy
hết. Nhưng có món quà mà tôi thích nhất là những “bài nhận định”.
Khi làm tờ Người Việt Tự Do, bài nhận định là bài khó nhất vì phải
nói lên được quan niệm, nhận định của Tổ Chức về thời cuộc Việt Nam
cũng như thế giới; thường thường thì đã được chia phiên (ngoại trừ
tôi), nhưng nếu người đến phiên bận chuyện không viết được thì rất ư
là kẹt. Nếu anh không bận công tác thì chuyện giải quyết dễ dàng,
nhưng nếu anh bận công tác xa thì báo lại phải phát hành trễ vì
phải chờ phải đợi. Tôi nhớ có vài lần, đúng vào lúc đang “bứt tai
vò trán” thì thư của anh đến cùng bài nhận định kèm theo vài chữ:
“Tôi gửi để phòng hờ nếu có kẹt bài”. Vì thế đối với tôi, đây là
những món quà mà tôi thích nhất vì đã nhận được những gì mà mình
muốn lại đúng ngay thời điểm.
- Anh có lối nói chuyện giống người Mỹ, hay nhún vai, khi nhắc
đến một tên nhân vật ngoại quốc anh thường thêm chữ “thằng” đằng
trước, một lối nói không lấy gì làm thiện cảm đối với người Việt
Nam nếu người nói chuyện không ở mức thân tình, điều này anh bị anh
em “chỉnh” không ít, nhưng khi giao tiếp với người ngoại quốc như Nhật
hay Mỹ thì anh lại được rất nhiều người quí mến. Có lần, một giáo
sư người Nhật cho biết là sẽ giới thiệu cho Tổ Chức một nhân vật có
thế giá, đầy quyền lực trong giới tài phiệt, chính trị Nhật. Hôm
gặp gỡ, vị giáo sư rất trang trọng, đem theo bà vợ cũng là người
Nhật mặc áo dài Việt Nam cho cuộc gặp thêm ý nghĩa. Khi hai bên giáp
mặt, vị giáo sư ngạc nhiên khi thấy anh bước tới tươi cười bắt tay vui
vẻ nói chuyện rất tự nhiên với nhân vật đó. Vị giáo sư thắc mắc
hỏi, anh cười nói: ông này tôi gặp mấy lần rồi mà!
Thời đó, việc nhập cảnh Mỹ rất khó dù chỉ đi du lịch, nhưng
chỉ cần anh viết một giấy giới thiệu ký tên anh dưới danh nghĩa “Tổ
Chức Người Việt Tự Do” là được cấp Visa ngay không cần phải chờ đợi.
Hỏi anh thì anh nói: Chuyện đó mà làm không được thì làm sao làm
chuyện lớn. Nhỡ có nhu cầu đấu tranh phải kết hợp phải di chuyển mà
không có những cái tối thiểu đó thì làm sao mà tranh mà đấu?
- Những vận động không ngừng nghỉ của anh, của những anh em
trong tổ chức khắp nơi đây đó, nhất là qua chuyến triển lãm hình ảnh
tị nạn xuyên nước Mỹ vào năm 1980 đã đưa tới kết quả: vào một ngày
của tháng 6/1981, anh báo tin là sẽ có một phái đoàn gồm đại diện 3
tổ chức: Lực Lượng Quân Dân Việt Nam, Tổ Chức Phục Hưng, Người Việt
Tự Do sau chuyến công tác Đông Dương sẽ đến Nhật để bàn tính chuyện
mở lối về quê mẹ, nâng cuộc đấu tranh lên một tầm vóc cao: Trực diện
với quân thù. Sau những phiên họp tại Nhật, vào tháng 12/1981,Tổ Chức
NVTD đã chính thức giải thể để gia nhập Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Giải
Phóng Việt Nam do tướng Hoàng Cơ Minh lãnh đạo. Đường về Việt Nam đã được
khai thông từ đó. Khi toán tiền phong từ khắp năm châu trở về đất mẹ
vào năm 1981, anh đã có mặt cùng những người bạn khác mà tôi đã
gặp. Việc anh trở về chẳng qua chỉ là một tiến trình suy luận hợp
lý. Cái lý đó thật giản dị: anh đã tìm được môi trường thích hợp
nhất để anh sống chết với quê hương.
- Trước khi lên đường, anh đưa tôi một túi xách và dặn dò đủ
thứ: “Đây là hồ sơ những nhà báo hay liên lạc, kia là túi đựng những
giấy tờ tùy thân cũ như: thẻ căn cước, sổ thông hành v.v....” còn có
một cái túi được gói nhiều lớp thật kỹ bên ngoài có ghi rõ: “những
thứ không nên xem”, tôi tò mò nhưng không dám hỏi, và tôi cũng quên hẳn
có cái túi như thế. Sau lúc vào khu chiến, anh có thư cho tôi và
“tiết lộ”: đó là túi đựng những lá thư của gia đình mà không bao
giờ anh trả lời và yêu cầu tôi giữ kỹ.
- Khi gặp lại anh trong một vài lần công tác tại hải ngoại,
tôi có cảm tưởng anh như là một người khác, tinh anh, sáng suốt, nhanh
nhẹn, sắc bén hơn khi trước. Tôi hỏi: ông có thấy ông thay đổi so với
trước không? Anh trả lời ngay: “Khác nhiều chứ, vào đó thì chỉ có
một chuyện phải làm là: Đặt hết tâm trí vào nỗ lực phải giải
phóng Việt Nam càng sớm càng tốt cho dân mình bớt khổ thôi”.
Chưa hết, anh còn rành rọt một cách quá chuyên nghiệp về những
gì mà trước đây anh chưa bao giờ đụng tới, anh giải thích chuyện
chuyên môn về cách làm đài phát thanh, cách edit, cách thu thanh, sao cho
tiếng không ồn. Anh dặn khi đọc bài thì phải thế này, thế nọ. Những
thư từ trao đổi giữa tôi và anh có khi biệt tăm có khi mấy tháng mới
nhận được nhưng lúc nào cũng thòng thêm một câu nửa đùa nửa thật:
“Ông nhớ làm cho đều đặn, tránh trường hợp có cũng được, không có
cũng không sao như thời sinh viên đâu đấy nhé”.
Khoảng cuối năm 1992, tôi được thông báo là anh mất tích.
* * *
Nguyễn Thái Học, Tháng 12/1927, khi còn là sinh viên 27 tuổi đã
là lãnh tụ của Việt Nam Quốc Dân Đảng, can cường đứng lên chống giặc
Pháp. Cuộc khởi nghĩa thất bại, ông bị lên đoạn đầu đài vào tháng 6
năm 1930 khi được 30 tuổi.
Phùng Tấn Hiệp, 22 tuổi (1977) cầm súng ở Đồng Bò, 25 tuổi
(1980) vượt biên tìm đường cứu nước. 30 tuổi (1983) đã hy sinh trên
bước đường khai mở lối về.
Ngô Chí Dũng, 24 tuổi (1975), lãnh đạo Tổ Chức Người Việt Tự
Do, 30 tuổi (1981) về nước chiến đấu. Mất tích (1992).
Tôi, hãnh diện được đứng chung hàng ngũ với Phùng Tấn Hiệp,
với Anh, những nối dài của tuổi trẻ dấn thân trong lịch sử cứu
nước.
Hôm nay ngồi ghi lại những giòng tâm sự về anh, tôi nhớ anh vô
cùng. Không biết thân xác anh bây giờ phiêu bạt nơi đâu, nhưng tôi vẫn
tin rằng anh vẫn còn hiện diện đâu đây bên cạnh để hỗ trợ đồng bào
anh, bè bạn anh trong trận chiến đấu cuối cùng này để mãi mãi chấm
dứt khổ đau trên quê hương yêu dấu.**
Tạm biệt anh.
Trần Đức Huy, Nhật Bản
_______________________________
* Một đoạn của “Bài Ca Đại Việt” thơ Bắc Phong trong tập thơ
Chính Ca, Huỳnh Vi Sơn phổ nhạc
**Lời kêu gọi của ông Hoàng Cơ Minh tuyên đọc tại chiến khu vào ngày
Công Bố Cương Lĩnh Chính Trị, 8 tháng 3 năm 1982.
***
Một đêm gần về sáng đầu tháng 5/2012, tôi nằm mơ thấy Ngô Chí Dũng về
Tokyo đến nhà tôi.
Trong cơn mơ, tôi lẩm bẩm, ông này đã mất tích rồi sao lại có mặt ở
đây, rõ ràng là người bằng da bằng thịt, không phải là mơ, rồi tôi ôm chầm lấy
NCDũng và bắt tay ghì chặt, nói với ông ấy: "Nghe tin ông đã bị mất tích rồi
mà, sao lại về được đây hả ?", ông ấy không trả lời, nhưng chỉ cười... Tôi
lăng xăng kéo tay ông ấy đi giới thiệu với mọi người đứng quanh đó, hình như có
cả ông Nguyễn Kim và ông Trương Lộc, bạn thân của tôi cũng đứng nói chuyện vui
vẻ gần đó...
Khi tôi mở mắt ra, thì đó chỉ là một giấc mơ... nuối tiếc, nhớ một người
bạn.
PTLinh
Nhật Bản
Ngô Chí Dũng, Phạm Thanh Linh (tháng 5-1980 tại Nam Cali hôm khai mạc triễn lãm hình ảnh Boat People) |
***
Mùa hè năm 1980, trong chuyến lưu diễn ở Bắc Mỹ để triển lãm hình ảnh
Boat People của nhiếp ảnh gia Nhật, ông Maekawa Makoto. Khi đến Montreal, tôi
đã có dịp gặp và cộng tác với hai anh Ngô Chí Dũng và Phạm Thanh Linh trong buổi
trỉển lãm ở Complexe DesJardins. Thế rồi dòng đời trôi theo mỗi phận người, tôi
đã không có tin tức gì về hai anh cho đến khi nghe tin anh NCD đã mất tích. Hơn
20 năm nay, tôi luôn nghĩ đến anh NCD với nhiều thắc mắc về sự mất tích của
anh. Mới đây, do một cơ duyên, tôi đã liên lạc được với anh Linh, người bạn đã
đi cùng với anh NCD. Cũng chính anh Linh đã gửi cho tôi những hình ảnh và tài
liệu xưa về thời kỳ đó, cũng như bài viết này của anh Trần Đức Huy mà tôi đã nhờ
anh Linh xin phép tác giả cho đăng trên blog Đất Lạnh.
Phạm Thị Thanh
Tháng 2-2014
____________________
Bài viết được đăng nhưng không nhất thiết phản ảnh quan niệm và lập trường của toàn ban biên tập Đất Lạnh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét